Gần 300 năm qua, piano đã thống trị vương quốc khí nhạc và thường được gọi là “Vua của các nhạc cụ” tuy rằng cũng có người cho rằng vị trí này phải dành cho loại đàn orgue ống (pipe organ). Piano là một nhạc cụ chơi bằng phím nhưng lại thuộc bộ Gõ, bộ tự thân vang (chordophones) do cấu trúc và cách tạo âm thanh của nó.
Piano được dùng rộng rãi trong biểu diễn độc tấu, hòa tấu, nhạc thính phòng, và đệm cũng như trong sáng tác và tập dợt. Mặc dù không thể mang vác dễ dàng và thường khá đắt nhưng tính linh hoạt và sự hiện diện khắp nơi của piano đã khiến nhạc cụ này trở nên một trong những nhạc cụ quen thuộc nhất trên thế giới.
Piano ra đời trong hoàn cảnh nào? Vì mục đích gì?
Cũng như mọi phát minh khác, piano được phát triển để làm cho cuộc sống dễ chịu hơn, nói theo một cách nào đó. Và nó đã làm tròn nhiệm vụ một cách tuyệt vời. Piano được phát minh vào cuối Tk. XVII bởi một nghệ nhân làm nhạc cụ tên là Bartolomeo Cristofori ở Florence, Ý. Lịch sử gọi ông là “người đã chế tạo nên cây đàn clavecin (tiếng Anh: harpsichord; một loại đàn phím tiền thân của piano ngày nay) có thể vừa chơi nhẹ (piano – tiếng Ý) vừa chơi mạnh (forte) được”. Tính cho tới lúc đó, điều này chưa ai làm được và cũng chưa có cây clavecin có thể diễn tấu được. Chính vì vậy, Cristofori gọi cây đàn mới này là “pianoforte” (nhẹ-mạnh) và bắt đầu từ năm 1732 được gọi tắt là piano. Kể từ năm 1698 với cây đàn phím “vừa chơi nhẹ vừa chơi mạnh được” đầu tiên ra đời cho đến khi Cristofori qua đời vào năm 1731, ông chỉ cho xuất xưởng được gần 20 cây piano có dạng hoàn chỉnh như ngày nay. Đa số những cây đàn piano còn lưu lại được của ông đều có năm sản xuất nằm trong thập niên 1720. Do đó, nhiều người coi năm 1720 là năm sinh của piano. Vì J.S.Bach là một trong những nhà soạn nhạc đầu tiên thử sáng tác cho cây đàn này nên lịch sử của cây piano hiện đại cũng gắn liền với tên tuổi của ông. Mặc dù ít ai biết chính Bach ngay từ đầu đã không thích loại nhạc cụ này vì cho rằng những nốt cao của đàn vang lên quá nhẹ. Thật ra, chính hai người con thiên tài của ông: Carl Phillipp Emanuel và Johann Christian mới là những người có công đầu trong việc phát triển âm nhạc cho đàn piano. Bach qua đời năm 1750 và cho tới lúc đó, chưa có khái niệm “pianist” (nghệ sĩ dương cầm) trong âm nhạc.
Nói về người chế tạo ra piano chúng ta không thể quên một nhân vật thứ hai, người làm đàn orgue ống người Đức tên là Gottfried Slibermann (1683-1753). Các đàn piano của ông sao chép lại đàn của Cristofori nhưng có thêm một bộ phận rất quan trọng: bàn đạp cho phép hãm tiếng vang của nhiều dây đàn cùng một lúc. Trong đàn piano của Cristofori, muốn hãm tiếng, người ta phải kéo một cần gạt như trong đàn orgue. Vào Tk. XVIII và nửa đầu Tk XIX, người ta chế tạo một bộ 3 dây đàn nằm sát nhau tương ứng với một nốt (một phím). Khi cần làm nhẹ tiếng đàn phát ra, các nhạc sĩ đạp bàn đạp ở bìa trái (nếu đàn có 3 hoặc 2 bàn đạp), khi đó cây búa sẽ không gõ vào một dây mà chỉ tác động trên 2 dây còn lại; trên bản nhạc piano, người ta ký hiệu kỹ thuật này là una corda hay due corde (có từ năm 1784; tiếng Ý nghĩa là “một dây hay hai dây”). Khi không cần đạp pedal nữa, người ta ký hiệu tre code (ba dây) hay tutte le corde (tất cả mọi dây).
Nửa sau của Tk. XVIII là giai đoạn cây đàn piano phát triển khá mạnh trên khắp châu Âu. Đàn piano của Anh có bộ phận cơ nặng nề hơn mục đích để làm tăng âm lượng. Đàn piano của Áo thì ngược lại có phần cơ nhẹ hơn để tạo âm sắc dịu dàng. Đó là lý do tại sao chúng ta nghe nhạc viết cho piano của Mozart có vẻ bay bổng, không giống với nhiều tác giả ở các nước khác. Cũng chính vì lý do đó mà những pianist của thời kỳ đầu này hiếm khi nào biểu diễn trên sân khấu cho đến khi đàn piano “lớn” (dùng để biểu diễn trong phòng hòa nhạc lớn – grand piano, piano à queue) ra đời nhiều năm sau đó.
Piano ra đời để giải quyết một số vấn đề bế tắc của các nhạc cụ phím trước đó:
1.Trước tiên, mặc dù có nhiều loại nhạc cụ phím (như đàn hurdy-gurdy – tiền thân của đàn fiddle và violin – đàn clavichord, và harpsichord) nhưng tất cả đều hơi khác nhau. Một số nhạc cụ có bộ phận kiểm soát âm lượng, nhưng cứ khi chơi chung nhiều với nhau thì rất khó nghe thấy tiếng của đàn phím.
2.Thứ hai là, ngoại trừ đàn orgue ra thì ở hầu hết các đàn phím không có cách nào để kéo ngân nốt nhạc ra. Đây sẽ là một vấn đề lớn khi cần diễn những tác phẩm có chuyển động chậm, duyên dáng.
3.Các nhà chế tạo nhạc cụ đã buộc phải làm đàn harpsichord (clavecin) phải có 2 lớp bàn phím, một để chơi những đoạn nhạc êm ái và một bàn phím khác để chơi những phần bè với âm lượng lớn hơn.
Piano ngày càng được phát triển và có cấu trúc càng tinh tế, hoàn thiện hơn. Sự biến đổi về âm lượng (biến cường) càng lúc càng cao, phong phú (Schubert sử dụng sắc thái ppp và fff vào năm 1826, trong chương I của bản Sonata D 894 của mình). Những biến cường lớn như vậy có được là do cách đặt dây đàn chéo góc với thùng đàn có từ năm 1802. Đến năm 1815, John Broadwood (nhà làm đàn người Scotland) phát minh ra khung kim loại cho đàn piano. Năm 1826 Jean-Henri Pape (nhà làm đàn piano người Đức, sống tại Pháp) dùng nỉ thay thế cho da để bọc các đầu búa và đến năm 1842 ông tăng âm vực đàn đến 8 octaves (các piano trước dài nhất chỉ có 6 octave rưỡi như cây đàn của hãng Streicher thuộc sở hữu của Beethoven). Cuối cùng, lần đầu tiên vào năm 1859, hãng Steinway cho ra đời cây đàn grand piano đầu tiên dành cho các buổi concert và đến khi đó những đặc điểm cơ bản của piano đã được thiết lập như chúng ta biết ngày nay. Một năm sau đó, 1860, cây đàn piano “đứng” (upright) chính thức thay thế vị trí của cây đàn piano “vuông” (square piano, là loại đàn piano gần như hình chữ nhật và không có thùng đàn) trong các gia đình.
Tại sao Piano được coi là Vua nhạc cụ?
Như đã nói, có người cho rằng đàn pipe organ (hay church organ) mới xứng đáng là “Vua của các nhạc cụ”. Tuy nhiên, một điều không thể chối cãi được đó là “Vua Piano” ngày càng có nhiều thần dân từ mọi giới (bình dân đến qúy tộc). Sau đây là một vài lý do khiến nhà Vua piano sớm được đăng quang kể từ khi ra đời:
1.Ngoại trừ đàn pipe organ ra thì piano là cây đàn lớn nhất trong thế giới nhạc cụ. Có những cây grand piano dài đến hơn 3m.
2.Tính linh hoạt của piano hơn hẳn các nhạc cụ khác, kể cả violin cho dù có nhiều kỹ thuật biểu diễn mà chúng ta chỉ có thể thực hiện trên đàn violin chứ không thể hoặc rất khó thực hiện trên đàn piano.3. Là một “ban nhạc một người” (one-man band) rất hiệu quả. Chúng ta có thể chơi trên piano mọi thứ, từ những giai điệu đơn giản đến phức tạp nhất và cả đàn phần đệm cùng một lúc.
4. Âm vực của đàn rộng nhất. Không có nhạc cụ nào cho phép diễn tả nhiều nốt trên một âm vực trải rộng như piano. Đây là nhạc cụ duy nhất có tới 88 phím riêng biệt và lại có thể chơi cùng lúc những nốt ở âm vực cao nhất với âm vực thấp nhất.
5. Có khả năng rất phong phú trong việc diễn đạt các biến cường. Chúng ta nghe được trên piano từ tiếng “leng keng” êm ái nhất ở âm vực cao nhất của đàn đến những âm thanh ở âm vực thấp trầm hùng, mạnh mẽ như bão tố. Đó là lý do tại sao piano luôn được chọn là cây đàn đệm cho những nhạc cụ độc tấu khác nhưng đồng thời cũng có thể là cây đàn độc tấu đối thoại với cả dàn nhạc giao hưởng.
(songnhac.vn)