Trong âm nhạc thế giới, người ta chọn năm 2010 là “Năm CHOPIN” để kỷ niệm 200 năm ngày sinh của nhà soạn nhạc thiên tài người Ba-lan, với nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật lớn sẽ diễn ra khắp nơi. Tuy rằng năm 2010 được chọn là “Năm Đức tại Việt Nam” để đánh dấu 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước, mở đầu bằng chương trình hòa nhạc Bản giao hưởng số 9 của Beethoven vừa được trình diễn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội, nhưng 2010 còn là “Năm Chopin tại Việt Nam” được đánh dấu bằng sự kiện pianist nổi tiếng thế giới người Việt, NSND Đặng Thái Sơn trở về nước và có một đêm diễn độc nhất tại Tp. HCM vào ngày 26/1/2010.
Đây là lần công diễn đầu tiên sau 10 năm của ông tại hành phố này. Tại sao nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức, Robert Schumann cũng sinh vào năm 1810 nhưng thế giới lại không chọn năm nay là năm Schumann? Chopin có gì thu hút mọi người như vậy?
Trong vòng 10 năm đầu của thế kỷ XIX, có 7 nhà soạn nhạc nổi tiếng của nhân loại ra đời. Chưa bao giờ trong lịch sử âm nhạc thế giới lại có thời kỳ nở rộ thiên tài phong phú như vậy. Frédéric CHOPIN (1810 – 1849) là một trong số “Bảy nhân vật kỳ diệu” đó. Ông đã từng là bạn bè thân thiết với Victor HUGO , Honoré de BALZAC , Alphonse de LAMARTINE và Geoerge SAND . Không phải CHOPIN chỉ nổi tiếng như một trong những nghệ sĩ dương cầm xuất sắc nhất của nhân loại, hay như người khai sáng ra nền âm nhạc cổ điển của Ba-lan, đưa âm nhạc Ba-lan lên tầm cỡ thế giới, mà ông còn được xem là nhà soạn nhạc “siêu sao” duy nhất, người không sáng tác gì cả ngoại trừ âm nhạc dành cho piano. Đây là điểm nổi bật nhất trong cuộc đời sáng tác của ông. Có thể gọi ông là “nhà thơ của cây đàn piano”. SCHUMANN đã viết về CHOPIN như sau: “Quý Ngài ơi! Hãy ngả mũ ra chào đón một thiên tài”.
Frédéric CHOPIN sinh vào năm 1810 tại làng Żelazowa-Wolia, gần thủ đô Warszawa . Cũng trong năm này, gia đình ông dọn về thủ đô và ngôi nhà của cha ông nhanh chóng trở thành nơi lui tới của những trí thức tiến bộ ở Warszawa . Cha ông, Nicolai CHOPIN, là một di dân người Pháp. Mẹ ông là một thiếu nữ Ba-lan. CHOPIN được lớn lên trong tư tưởng của VOLTAIRE , ROUSSEAU và ông đã cùng những trí thức yêu nước Ba-lan khác cống hiến cuộc đời cho sự tự do của tổ quốc thứ hai của mình.
Mới 8 tuổi, mọi người yêu nhạc Ba-lan đã công nhận tài biểu diễn piano “thần đồng” của ông trong lần trình diễn đầu tiên của ông trước công chúng. Năm 16 tuổi, ông vào học ở nhạc viện Warszawa và tốt nghiệp vào năm 1829. Trong thời kỳ sống ở Warszawa, ông đã được tiếp xúc với âm nhạc cổ điển thành Vienna và làm quen với các tác phẩm của những nhà soạn nhạc lừng danh như HAYDN, MOZART, WEBER, ROSSINI, BEETHOVEN. Năm 1829, ông được thưởng thức tài nghệ diễn tấu violon tuyệt vời của PAGANINI. Buổi biểu diễn này đã gây tác động mạnh mẽ đến chàng sinh viên vừa mới tốt nghiệp của nhạc viện Warszawa. Để rồi cũng vào năm đó, những lần biểu diễn của ông tại Vienna đã thực sự làm cho thế giới âm nhạc bác học biết đến và kính phục ông, cũng như mang lại vinh quang cho đất nước Ba-lan, quê hương thứ hai của mình.
Năm 1830 là một năm không thể nào quên trong cuộc đời CHOPIN. Tại Ba-lan đang phong trào khởi nghĩa đã lên đến cao độ. Bạn bè và người thân khuyên ông nên sang Pháp để có cơ hội phát triển hơn với nền văn minh và âm nhạc của Tây Âu. Nhưng CHOPIN không muốn rời xa tổ quốc, bởi ông linh cảm sẽ phải lìa xa vĩnh viễn nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Cuối cùng, vào tháng 10 năm 1830, CHOPIN biểu diễn lần cuối tại quê hương để đến ngày 2 tháng 11 năm đó, ông vĩnh viễn rời xa Tổ quốc. Khi ông sang đến Áo, cũng là lúc cách mạng Ba-lan bùng nổ. Ông nhận được từ trong nước nhiều bài hát, hành khúc của bè bạn tượng trưng cho chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Ba-lan. Trên các motiv của những bài hành khúc này, ông đã sáng tác khúc “ Overture Ba-lan”. Tại Áo, CHOPIN bị rơi vào tình trạng cô độc, vì những người Ba-lan ở đây không ủng hộ ông. CHOPIN đã quyết định sang Pháp.
Paris vào những năm 1830. Trong phòng khách của một ngôi nhà đơn sơ, người ta thấy có Franz LISZT , Victor HUGO, Honoré de BALZAC, Alexandre DUMAS (Cha), STENDAHL , George SAND. Họ ngồi chung quanh một chàng trai trẻ luôn mang vẻ u sầu. Đó là cảnh thường gặp trong nhà của CHOPIN tại Paris. Tại đây, CHOPIN cũng được công nhận là nghệ sĩ biểu diễn piano xuất sắc của thế giới. Nhưng càng về sau, vì nỗi buồn tha hương, hoạt động biểu diễn của ông chỉ giới hạn trong số kiều dân Ba-lan.
Cuối thập niên 1830, đầu thập niên 1840 là thời kỳ nở rộ trong sáng tác của CHOPIN. Các sáng tác của ông sâu sắc hơn, khi ông để tâm nghiên cứu về MOZART và BACH cũng như của LASSO và PALESTRINA. CHOPIN thường xuyên chơi các prélude và fuga của BACH. Năm 1848, CHOPIN sang Anh trong một thời gian ngắn để chữa bệnh. Tại đây ông dạy học, biểu diễn và tìm hiểu thêm về dân ca miền Scotland. Tại đây, trái với mục đích của lần ra đi, sức khỏe của ông nhanh chóng giảm sút. Ông biểu diễn lần cuối cùng vào ngày 16 tháng 11 năm 1848. CHOPIN đau nặng và phải nhanh chóng trở về Paris. Trước khi qua đời ông đã hoàn tất hai Mazurka giọng Gm, op. 67 và Fm, op. 68. CHOPIN qua đời vào ngày 17 tháng 10 năm 1849 tại Paris, vì bệnh lao phổi. Lời yêu cầu của ông trước khi chết là được gởi trái tim của mình về tổ quốc Ba-lan thân yêu. Năm 1990, chúng tôi có dịp đến Ba-lan và viếng thăm nhà thờ “Thánh Tâm hay thương xót” ở Warszawa. Tại đây, trong một chân cột nhà thờ thuộc dãy cột phía bên trái, người ta chôn vào đó tro của trái tim CHOPIN. Bia đá cẩm thạch gắn trên mặt cột có ghi hàng chữ đơn sơ: ” SERCE FRYDERYKOWI CHOPINOWY RODACY” (Trái tim của công dân Frédéric CHOPIN) . Chúng tôi được kể lại rằng, trong Thế Chiến thứ II, khi Đức Quốc xã chiếm đóng vào Warszawa, một trong những mục tiêu của họ để phá hủy nền văn hóa Ba-lan là thủ tiêu tro của trái tim CHOPIN. Nhưng quân đội Đồng minh đã di tản hộp đựng tro đi từ trước đó và chỉ mang lại sau ngày hòa bình được tái thiết.
Khi đến thăm Warszawa, du khách không thể bỏ qua một di tích nổi tiếng khác về CHOPIN. Đó là bức tượng bằng đồng đen mô tả ông ở tư thế ngồi đặt trong công viên Łażienki (tức Vườn Ngự Uyển, nơi có hồ tắm của Hoàng gia Ba-lan). Bức tượng này được dựng vào năm 1910 kỷ niệm 100 năm ngày sinh của CHOPIN.
Khi Thế chiến thứ I nổ ra, bức tượng được tháo gỡ và dựng lại vào năm 1926. Đến Thế chiến thứ II, quân đội Đồng minh đã cho di tản phần cái đầu của bức tượng và toàn bộ phần thân đã bị quân Đức Quốc xã phá hủy vào ngày 31/5/1940. Sau khi chiến tranh chấm dứt, người Ba-lan xây dựng lại phần thân mới vào năm 1958. Ngày nay du khách được chiêm ngưỡng bức tượng nổi tiếng này với 2 phần: phần đầu được thực hiện từ 1907 và phần thân sau năm 1945! Chung quanh nơi đặt bức tượng này là chỗ biểu diễn piano quốc tế về Chopin. Các buổi diễn thường là miễn phí và được tổ chức vào các chiều Chủ nhật trong mùa hè. Các nghệ sĩ được mời thường phải là những người đã đoạt các Giải Chopin quốc tế. NSND Đặng Thái Sơn đã từng được mời biểu diễn trước công chúng tại đây. Tính cho đến năm 2007, đây là bức tượng CHOPIN cao nhất thế giới.
CHOPIN đã khiến thế giới phải công nhận nền âm nhạc bác học của Ba-lan, và đưa vào kho tàng âm nhạc thế giới hai thể loại mới đó là Mazurka (một điệu dân vũ của Ba-lan được viết ở nhịp 3/4, với phách 2 được nhấn mạnh, hoặc đôi khi được nhấn mạnh ở phách 3) và Polonaise (Là một điệu nhảy từng bước cổ của Ba-lan. Nó cũng là tên gọi của những tác phẩm nhịp 3/4 viết cho piano của CHOPIN) . Mặc dù ông không viết giao hưởng nào, cũng không có vở nhạc kịch hay oratorio nào, nhưng ông được coi là bậc thầy của những hình thể nhỏ, tựa như trường hợp của SCHUBERT trong lãnh vực ca khúc. Như đã nói ở trên, ông chỉ viết nhạc dành cho piano và một số ít cho dàn nhạc. Tác phẩm dành cho dàn nhạc nổi tiếng, mang đầy đủ phong cách của CHOPIN là: Concerto cho piano Nr. 1, op. 11, giọng Em (1830) và Concerto cho piano Nr. 2, op. 21, giọng Fm (1829). Điểm đặc biệt của 2 tác phẩm trên đây là CHOPIN đặt vai trò của piano lên trên dàn nhạc, chứ không chỉ nhằm mục đích biểu diễn kỹ thuật như các nhạc sĩ khác thường làm.
Đánh giá chung toàn bộ tác phẩm của CHOPIN, nhiều nhà phê bình đã đồng ý rằng cần phải có chỗ xứng đáng trong lịch sử âm nhạc cho các tác phẩm của BACH, cho 32 sonatas của BEETHOVEN và cho âm nhạc piano của CHOPIN, bởi âm nhạc của CHOPIN mang những giai điệu tuyệt mỹ và vẻ đẹp thuần khiết của âm thanh. Tính trữ tình – tính diễn cảm đặc biệt tiêu biểu cho phong cách của ông – đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển âm nhạc của thời kỳ Lãng mạn. Riêng đối với việc phát triển kỹ thuật biểu diễn và sáng tác cho piano, nếu LISZT được coi như là người cố công đưa một mình piano đối đầu với cả dàn nhạc, thì CHOPIN chính là người đã thử nghiệm tiên phong. Hai concerto viết cho piano của ông là bằng chứng hùng hồn cho điều đó. Một điểm không thể quên khi nói đến tác phẩm của CHOPIN đó là hình ảnh của tổ quốc Ba-lan, tình yêu ông dành cho quê mẹ của mình, nỗi đau khổ vì sự thất bại của cách mạng Ba-lan trước quân đội của Nga Hoàng là những chủ đề chiếm gần như trọn vẹn các tác phẩm của ông. Ông là người đầu tiên làm cho cả thế giới thấy được vẻ đẹp và ngưỡng mộ nền văn hóa Ba-lan. Mọi người đều đồng ý rằng tuy sống ở nước Pháp lâu năm, nhưng Paris không bao giờ có thể tách rời Ba-lan ra khỏi con người nghệ sĩ dương cầm thiên tài này. Và ngược lại, người dân Ba-lan bao giờ cũng nghĩ đến ông. Thật vậy, bản nhạc cuối cùng mà người ta nghe được trên đài phát thanh Warszawa trước khi nó rơi vào tay quân Nazis Đức chính là 11 nốt nhạc đầu tiên của bản Polonaise giọng Am.